Tiếng cười của Thánh giả tan dần trong gió, âm vang như vết khắc giữa không hệ, để lại Lang Lang đứng trơ giữa bãi tàn trận, mặt đỏ tía tai, vừa đau, vừa nhục.
Nam tử cúi đầu nhìn túi nang bên hông, đúng là túi linh thảo hái từ thảo nguyên, vốn dùng để luyện linh dược dưỡng khí, vậy mà trong mắt những kẻ cao tọa kia, lại hóa thành trò cười, như thể Lang Lang là một con dã thú ngu si gặm cỏ nơi sơn cốc...
Một luồng cay đắng từ ngực dâng lên yết hầu, mằn mặn nơi đầu lưỡi, môi run khẽ, tự thầm cất ngữ:
“lũ nghịch đồ này, khinh người quá thể, không biết trời cao đất dày”
Nói đoạn, Lang Lang xoay thân, rời khỏi nơi đây, phi hành tây địa hướng, tiếp tục vượt qua Cổ Binh Địa Nguyên, tìm nơi hẻo lánh giữa sơn hải mà dưỡng thương hệ...
Gió đêm lùa qua phục y, huyết khô kết thành vảy, vết thương rát buốt, Lang Lang vẫn cắn răng phi hành tiếp, thân ảnh cô độc như một vệt sao lạc, chao đảo mà chẳng dừng...
Giữa đêm trường, hồi ức bỗng dâng như triều nghịch, trong tâm hải, nam tử lại thấy bóng phụ mẫu hiện về thân khoác thiên y, miệng niệm đạo ngữ, từng dẫn hắn qua lễ hội của các chư thiên nơi tầng vân thượng giới. Khi ấy, thiên nhạc tấn khúc vang xa, hoa quang khắp tứ bề, phụ thân cung hỷ dùng thần pháp biến hiện, dựng cơ đồ Bồng Lai Tiên Cảnh chỉ để tặng mẫu tử.
Cảnh cũ như mộng, người cũ tựa sương, Lang Lang khẽ chạm tay vào ngực, nơi tâm ý vẫn còn nhịp đập của chư thiên, một giọt lệ trượt khỏi khóe mắt, tan vào gió lạnh, chẳng ai biết là vì đau thương hay vì niềm nhung nhớ đã hóa thành ai lệ...
Lang Lang ngẩng đầu nhìn lên tầng thiên u tịch, khẽ thì thầm:
“Phụ thân, mẫu thân… đứa nghịch tử này, của mọi người, giờ đã chẳng còn nơi dung thân nữa rồi..!”
Âm ngữ tản theo gió, tiêu tán giữa vân hải vô biên xứ, Lang Lang vẫn một mực phi hành, song huyết khí trong thân thể đã tán loạn, cốt mạch đau nhức như dao cắt, đến khi linh khí nghịch chuyển, chấn động trong thần thức, hắn mới liền dừng lại giữa không cực, hắn hít sâu một hơi, thân ảnh hơi lảo đảo, rồi hạ dần xuống...
Chân chạm đất, hắn khuỵu một gối, bàn tay chống lên tảng đá phủ rêu, hơi thở phì ra từng nhịp nặng nề, mồ hôi hòa máu, ướt đẫm y phục, nam tử ngẩng đầu, nhìn quanh, khắp nơi cỏ dại xào xạc, rừng tĩnh như thở, chỉ có tiếng nước chảy róc rách bên suối, một khoảng thanh tịnh hiếm hoi giữa mênh mông trần vụ...
Lang Lang men theo lối nhỏ, bước đến bên bờ, cởi lớp phục y rách nát, vắt qua tảng đá, ánh nguyệt rơi trên thân hắn, hằn lên từng vết thương, tím bầm, rướm máu, hắn cúi đầu rửa mặt, nước lạnh buốt khiến da thịt tê rát, nhưng thần trí lại tỉnh hơn phần nào...
Nam tử gỡ lớp băng nơi vai, cẩn thận bóc từng vòng, vải dính chặt vào thịt, kéo ra là huyết chảy ròng, nam tử khẽ nhíu mày, không than, chỉ thở dài một tiếng...Rồi lấy trong túi nang ra củ địa hương linh thảo, màu nâu nhạt, vỏ khô, mùi thơm nhẹ như hương địa thảo, nam tử đặt nó lên phiến đá phẳng, rồi mài củ thành bã vụn nghiền nát, lấy bã linh thảo thoa lên vai bị vết thương trảo pháp...
Linh thảo chạm da, hàn khí len vào kinh mạch, nhức nhối như kim châm, lát sau, khí nóng trong người dần tan, huyết ngưng, da thịt se lại, nam tử xé vải áo cũ, băng quanh vai, rồi ngồi tựa vào tảng đá, mắt lim dim nhìn lên trời...
Trong yên lặng ấy, Lang Lang khẽ buông tiếng thở dài, tâm trí lại trôi về thuở xa xưa lần nữa, khi phụ mẫu còn, khi còn là hài tử được bồng trên tay, được đưa phiêu du khắp chốn, xem thần đăng rực rỡ, phụ thân từng cười mà nói:
“Lang nhi, sau này khi con đủ đạo, hãy tạo lấy một vùng bồng lai của riêng mình...!”
Nam tử khi ấy ngây ngô đáp:
“Phụ thân, nếu con tạo được, con sẽ dựng nơi ấy cho người ở, để phụ mẫu chẳng phải phiêu du nữa, mà ở lại với con...!”
Nay nhớ lại, khóe mắt nam tử ươn ướt, giữa phàm giới lạnh lẽo, chỉ còn bóng mình phản chiếu trong suối, như hai cõi giới cách biệt.
Lang Lang nhắm mắt, điều tức nửa canh giờ, đến khi khí tức ổn định, mới chậm rãi đứng dậy, phủi áo, rồi bước từng bước phi hành lãng du...
Phi hành suốt một đêm, khí trời dần ấm, mây tan loãng, phía trước thấp thoáng ánh sáng như sao tụ, phản chiếu cả một vùng chân trời, nam tử chậm lại, thu phong linh quanh thân, rồi đáp xuống một gò đất ngoài thành, trước mắt là Tục Duyên Hải Đô, thành đô lớn của miền địa nguyên duyên khởi, nơi phàm nhân cư ngụ, quán xá đan nhau như mạng tơ linh đăng...
Nam tử đứng một lúc lâu, mắt nhìn vào kinh thành xa xa, gió mang mùi nếp mới, mùi khói bếp, mùi rượu gạo và tiếng hát hòa vào nhau, nhộn nhịp mà ấm lạ...
Lang Lang khẽ mím môi, tự nhủ:
“Phàm nhân thật lạ, chỉ một mùa gặt mà có thể vui đến thế này...!”
Nam tử men theo lối mòn, bước vào cổng thành, hai bên đường, người qua lại nườm nượp, những gánh hàng treo đầy lồng đèn đỏ, thiếu nữ khoác áo lụa mỏng, cười khúc khích dưới ánh trăng, tiếng rao hàng xen tiếng trống lễ hội vọng lại từng hồi...
Không khí khác hẳn tiên giới, nơi ấy tĩnh, nơi này động; nơi ấy thanh, nơi này tục, nhưng chính cái “tục” ấy lại khiến lòng nam tử thấy ấm áp, như được chạm vào điều gì rất thật...
Bước đến quảng trường, Lang Lang thấy giữa phố thị treo biển lớn:
“Lễ Đông Mộng Nếp Nương — Cảm Tạ Mẫu Lương Thần”.
Người người tụ tập, trẻ con cầm bánh tròn múa hát, cụ già thắp hương cảm tạ thần thổ địa, nam tử khẽ cúi đầu, một lễ phàm tục, nhưng thành tâm hơn vạn lần những nghi thức ở chư thiên...
Đi thêm vài dặm, nam tử nghe tiếng xèo xèo thơm lừng, bên vệ đường, có một đại thúc trung niên áo vải, đang đổ bánh trên chảo gang, hương nếp quyện mùi khói làm bụng nam tử réo lên.
Lang Lang dừng lại, nhìn người bán một hồi rồi chỉ tay:
“Đại thúc, ta muốn chiếc bánh kia… ta cần có gì để đổi...?”
Người bán bánh ngẩng lên, mặt rám nắng, mồ hôi nhỏ giọt xuống cổ, đại thúc nhìn thiếu niên áo lam rách nát, tóc xõa ngang vai, sắc mặt trắng bệch, đôi mắt sáng lạ thường, thoạt đầu, tưởng nam tử đùa, nhưng thấy vẻ ngây thật thì đại thúc trố mắt:
“Ơ… ngươi… hỏi cái gì cơ? Không biết dùng kim tệ à...?”
Lang Lang khẽ nghiêng đầu:
“Kim tệ? Là linh thạch sao? Hay là bảo vật tương đương...?”
Đại thúc bánh ngẩn ra, rồi bật cười ha hả:
“Linh… linh cái đầu ngươi! Ở đây là phàm nhân đô, không có linh thạch nào cả...! Ngươi muốn bánh thì phải có kim tệ! Không có kim tệ thì phải đi làm, đi làm đó..! Ngươi hiểu chưa...? Hay ngươi là con nhà quyền quý học nhiều quá, học tới hóa rồ rồi à...?”
Lang Lang đứng sững, trong đầu nam tử loé lên hình ảnh phụ mẫu dạy dỗ về đạo lý bố thí, về nhân quả, về phước đức, trên thiên giới chưa từng có ai nói “muốn ăn phải có kim tệ”.
Hắn hơi cúi đầu, giọng nhỏ như gió lạc:
“Ta… chưa từng học qua cái đạo ‘kim tệ’ này...Mong đại thúc bớt giận!"
Đại thúc bán bánh phẩy tay, giọng đã bực:
“Thôi, thôi, ngươi đứng chắn chỗ người ta làm ăn rồi.! Không có linh tệ thì tránh ra, đi đi thiếu niên, ta bận lắm!"
Lang Lang lùi lại, ánh mắt khẽ tối, một cảm giác trống rỗng bỗng dâng lên trong tâm, kẻ mang dòng huyết chư thiên, từng đứng giữa pháp trận thiên giới tranh vương, giờ lại bị một phàm nhân đuổi khỏi quán bánh...
Nam tử nhìn chiếc bánh đang chín vàng trên chảo, hương thơm quyện khói, mà cổ họng khô khốc, nam tử không nói gì, chỉ khẽ quay lưng, bước đi chậm rãi giữa dòng người nhộn nhịp...
Bóng nam tử lẩn vào đám đông, áo lam phất nhẹ trong gió, như một mảnh sương lạc giữa trần phàm rực rỡ, nguyệt hoa chiếu xuống, phản chiếu lên mặt đất đầy đèn linh lung, mà chẳng ai để ý đến một kẻ từng thuộc về tầng trời, nay đang học cách bước đi như một phàm nhân…
Lang Lang lững thững giữa dòng người, ánh đèn vàng phủ trên mái tóc đen rối, mắt nam tử trầm xuống, không rõ là đói, hay là ngại, nam tử từng ăn linh quả ngàn năm, uống linh tuyền thượng giới, mà giờ đến một chiếc bánh phàm cũng không đổi nổi, có chút ý vị cay đắng chảy dọc cổ họng, như hòa cùng hương khói phàm nhân...
Đang định rời đi, ánh mắt Lang Lang chợt dừng lại nơi góc phố thị, một tấm biển treo nghiêng, viết ba chữ “Dược Lão Các”, mực đen còn loang, hương dược liệu phả ra nồng nàn...
Lang Lang khẽ gật đầu, tự nhủ:
“Dược… thì đâu cũng là dược. Biết đâu có thể đổi ít vật dụng...!”
Nam tử bước vào, cửa gỗ cũ kêu “kẽo kẹt”, mùi linh thảo phả lên, cay nơi mũi, trong quán, dãy kệ chất đầy bình ngọc, hộp gỗ, từng gói thảo dược treo lủng lẳng trên xà, một tiểu thương áo ngắn, tay cầm bàn tính, vừa thấy khách lạ thì bước ra đón, giọng cung kính mà có chút nghi ngờ:
“Thưa đạo hữu, ngài muốn mua hay bán vật gì...?”
Lang Lang khẽ mỉm cười, giọng ôn tồn mà có chút mệt mỏi:
“Không dám.! Ta có chút thảo dược hái được trên đường, mong đạo hữu xem thử, có thể đổi lấy kim tệ chăng...?”
Nói đoạn, Lang Lang gỡ túi nang bên hông, đặt nhẹ lên bàn, tiểu thương thuận tay mở ra liền khựng lại, ánh linh quang mờ ẩn tỏa ra, hương dược thanh tịnh như có linh tính, mấy cọng linh thảo vẫn còn ướt sương…
Mắt hắn mở lớn, rồi lập tức nhìn quanh, vội khép túi lại, nắm tay Lang Lang kéo vào trong, thì thào:
“Công tử… huynh giả nghèo cũng giỏi lắm.! Nhưng đi giữa phố thị mà mang theo từng này linh thảo, nếu lọt mắt phàm đạo hay tiểu tu, e mất mạng chứ chẳng phải của cải!"
Lang Lang hơi ngẩn người, rồi chỉ cười nhạt, tiểu thương lắc đầu, ra hiệu nhỏ giọng:
“Công tử, xin mời vào trong! Ta gọi đại ca ta ra nghênh tiếp.”
Hắn liền hướng vào hậu viện, cất tiếng:
“Sư huynh! Có khách quý!”
Một lát sau, từ bên trong vọng ra tiếng đáp, rồi người đàn ông trung niên râu tơ bước ra, thần sắc trầm ổn, mặc y phục nho sinh, trên cổ đeo phù ngọc tán linh, vừa nhìn Lang Lang, vị ấy liền chắp tay:
“Đạo hữu xin mời an tọa, ta là chủ dược quán này!”
Lang Lang khẽ gật đầu, ngồi xuống ghế trúc, tiếp chén trà, hương sen phảng phất, quán chủ ánh mắt sáng như đuốc, cất giọng:
“Nghe tiểu đệ nói, đạo hữu mang linh thảo quý, không ngại cho ta xem qua chăng?”
Lang Lang chẳng chút đề phòng, chỉ nhẹ nhàng mở túi nang, đổ ra bàn, linh quang lan tỏa khắp phòng, ánh sáng vàng nhạt rọi lên vách gỗ, chủ quán vừa nhìn liền nghiêm mặt, bắt đầu tỉ mỉ kiểm đếm:
“Bảy gốc Địa Hương La, bốn củ Địa Hương tính riêng…Chín gốc Mộc Linh Thảo… ba gốc Tiêu Tâm Hoa…Hai mươi lá Huyền Sâm Diệp… hừm, toàn linh dược ngàn năm, lại vừa hái xong!"
Vị quán chủ ngẩng đầu, trầm giọng:
“Giá trị thực khoảng năm vạn bảy ngàn kim tệ, nhưng theo lệ thương, ta thu mua giá ba vạn bảy ngàn, lời hai vạn, đạo hữu tu đạo, ta cũng vậy, việc buôn bán, không nên dối trá!"
Lang Lang nghe xong, không mảy may suy tính, chỉ gật đầu:
“Được.”
Quán chủ thoáng kinh ngạc, tưởng sẽ bị mặc cả, nhưng nhìn ánh mắt bình thản kia, trong lòng lại sinh chút kính, quán chủ đích thân gom linh thảo, lấy túi kim tệ trong khố ra, hai tay trao tận nơi...
Nam tử nhận lấy, gật đầu tạ lễ, rồi rời quán, bước ra đường, ánh đèn vẫn lung linh, tiếng người vẫn ồn ã, mà trong tay nam tử đã có chút nặng, nặng linh tệ, nhưng nhẹ cả lòng...
Nam tử tìm một quán trọ gần cổng nam, thuê gian phòng tầng hai, kê giường trúc, đặt bầu nước, tắm rửa sơ qua rồi nghỉ li bì, đến nửa đêm hôm sau, tiếng chuông từ xa vang lại, nam tử mới tỉnh, thay áo mới mua ở cửa hiệu nhỏ, rồi thong thả ra ngoài du hành...
Trăng vừa tròn, ánh bạc trải khắp mái ngói, Lang Lang men theo đại lộ, chợt thấy một đạo quán lớn, biển gỗ viết ba chữ “Linh Bảo Các”, ánh sáng lưu quang phản chiếu từng tia nhỏ như phù văn di động...
Lang Lang khẽ gật đầu, bước vào, bên trong, hàng trăm linh khí treo trên giá, từ ngọc kiếm, hồ lô, phù giới, đến cả tiểu linh trận, tuy phẩm không cao, nhưng khí vận ẩn ẩn, khách ra vào rộn ràng, ai nấy đều là tiểu tu, người có đạo vận sơ cấp, kẻ vừa thông linh mạch...
Lang Lang dừng chân trước một giá trưng, nơi bày vài món pháp khí bình thường nhưng khảm linh văn thô sơ, nam tử đưa tay khẽ chạm, linh lực trong tay hòa vào, ánh sáng khẽ run.
“Vật phàm, nhưng có linh!” nam tử khẽ nói, “nếu có duyên, cũng thành đạo cụ!”
Bên cạnh có tiểu quán chủ tóc bạc, nhìn nam tử chăm chú một hồi, rồi nhẹ giọng hỏi:
“Tiểu đạo hữu, nhìn huynh không giống người mới nhập đạo, sao lại để mắt đến pháp cụ hạ phẩm?”
Lang Lang mỉm cười, đáp bằng giọng nhỏ, như gió động qua sương:
“Vạn pháp hữu linh, đạo sinh không ở vật, vật tuy hạ phẩm, tâm tịnh thì là cao binh!”
Tiểu quán chủ thoáng sững, ánh mắt biến đổi, từ khinh chuyển thành trọng, như thấy lại bóng dáng ai đó từng bước qua thiên môn năm xưa…